Tên của những hệ điều hành phổ biến tới từ đâu?
Ngoài tên gọi chính, một hệ điều hành còn có tên phiên bản và tên mã, tất cả đều được đặt theo một quy luật hay lý do nào đó.
Đằng sau mỗi cái tên luôn là một câu chuyện các loại hệ điều hành cac he dieu hanh cho may tinh thú vị. Bài viết sau đây sẽ giúp bạn hiểu được lý do giải thích cho cái tên của một số hệ điều hành phổ biến hiện nay.
1. MS-DOS
Micro Soft Disk Operating System (MS-DOS) được đăng kí bản quyền lần đầu tiên dưới tên gọi Quick and Dirty Operating System (QDOS) và thuộc sở hữu của công ty Seattle Consumer Products. MS-DOS hoàn toàn không có các hệ điều hành cho điện thoại giao diện người dùng đồ họa (GUI), thay vào đó, nó hoạt động dựa trên các dòng lệnh đơn thuần được nhập vào bởi người dùng. DOS thực ra là một thuật ngữ khá chung của ngành công nghệ lúc bấy giờ khi là viết tắt của “Disk Operating System” (hệ điều hành đĩa) và MS-DOS chỉ đơn giản là cách để Microsoft phân biệt hệ điều hành của mình với các hệ điều hành khác cùng thời như Apple DOS, AmigaDOS hay freeDOS.
2. Windows 1.0 – NT 4.0
Cái tên “Windows” đến từ việc hệ điều mới mà Microsoft phát triển lúc bấy giờ (Windows 1.0) giao tiếp với người dùng thông qua các “cửa sổ” cùng giao diện người dùng đồ họa GUI. Cho đến nay, Microsoft vẫn tận dụng hình ảnh của hệ điều hành nào tốt nhất cho điện thoại những chiếc cửa sổ làm đặc trưng cũng như tên gọi hệ điều hành máy tính mình đang hỗ trợ.
Microsoft gắn bó với cách đặt tên phiên bản hệ điều hành với kiểu số từ 1.0 cho tới 3.1, sau đó, hãng bắt đầu thêm vào hai chữ NT, viết tắt của New Technology để chỉ công nghệ mới họ đang thực hiện, khai sinh ra phiên bản mới Windows NT 4.0.
3. Windows 95 – ME
Cũng có một vài phiên bản Windows trong đó Microsoft tận dụng luôn năm ra mắt làm tên gọi, có thể kể đến như Windows 95, Windows 98, Windows ME (Millennium Edition) và Windows 2000. Trong số này, Windows 95, 98 và ME được dựng lên trên nhân của Windows 3.1. Windows ME được ra mắt vào năm 2000 dành cho các dòng máy tính phục vụ các hộ gia đình trong khi đó Windows 2000 được tối ưu cho các máy tính phục vụ giới kinh doanh, công việc.
Windows 2000 sử dụng nhân NT do đó có thể được coi là phiên bản kế nhiệm trực tiếp của NT 4.0.
4. Windows XP, Vista và Windows 7
Windows XP ra đời năm 2001 với XP là he dieu hanh nao manh nhat viết tắt của eXPerience (trải nghiệm). 7 năm sau XP, Microsoft ra mắt Windows Vista . Theo chia sẻ của Microsoft, cái tên Vista được lấy cảm hứng từ một triết lý quen thuộc của hãng này “At the end of the day…what you’re trying to get to is your own personal Vista.” (tạm dịch: Cuối cùng... tất cả những gì bạn muốn đạt đến vẫn là có được triển vọng của riêng mình). Dẫu vậy, vì rất nhiều lý do, Windows Vista không hề đạt được “triển vọng” tươi sáng mà Microsoft ấp ủ.
Trong khi đó, Windows 7 được đặt tên như vậy vì đây là phiên bản thứ bảy kể từ thời Windows 95. Mặc dù nếu đếm từ phiên bản đầu tiên nhất, Windows 7 đã là phiên bản thứ 10 tuy nhiên Microsoft chia sẻ nếu đặt tên là Windows 10, mọi người sẽ có thể nhầm lẫn giữa nền tảng này và Mac OS 10.
5. Mac OS 8 – 10
Mac OS 8 ra mắt vào năm 1997, một thời gian ngắn sau khi Steve Jobs trở lại làm việc cho Apple. Nó được dự định tung ra thị trường với tên phiên bản là 7.7 tuy nhiên Apple phải chuyển thành 8 vì điều này sẽ có lợi hơn cho một số lý do pháp lý.
Mac OS 9 là cột mốc đánh dấu bước chuyển của Apple ra khỏi thế hệ Mac OS “cổ điển” khi đây là phiên bản cuối cùng được lập trình bởi đội ngũ của riêng “táo khuyết”. Bắt đầu từ OS X (OS Ten), nền tảng nàyđược dựng lên từ Berkeley Software Distribution (BSD), hệ điều hành được phát triển bởi chính công ty Steve Jobs dựng lên sau khi ông rời Apple mang tên NeXTSTEP. Công ty này được Apple mua lại vào năm 1997.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét